8 vấn đề khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đối diện
Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc Thủ tướng Chính phủ làm việc với đại diện doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và các địa phương diễn ra vào sáng ngày 8/8, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã nhận diện 8 vấn đề khó khăn mà doanh
8 nhóm vấn đề khó khăn
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư diễn biến phức tạp, khiến khu vực doanh nghiệp vốn đã bị tổn thương lại càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Các nguồn lực dữ trữ đang cạn dần trong khi thị trường chưa có dấu hiệu phục hồi hoặc đang phục hồi rất chậm.
Số doanh nghiệp thành lập mới trong tháng 7/2021 giảm 34% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 7 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2020, đây là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020.
Cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt với rất nhiều khó khăn |
“Một điểm đáng quan tâm hơn nữa là, đợt dịch thứ 4 này đã xâm nhập và tác động tiêu cực tới các khu công nghiệp, khu chế xuất, nơi tập trung một lượng lớn các lao động, nhất là ở các tỉnh, thành phố phía Nam - khu vực kinh tế năng động nhất của Việt Nam, dẫn đến nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, sản xuất quy mô lớn, ảnh hưởng lớn đến kinh tế địa phương và cả nước” – Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Từ đó, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, 8 nhóm vấn đề khó khăn mà cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt, bao gồm: Thứ nhất, tổng cầu giảm mạnh khiến cho các đơn hàng, hợp đồng, sản lượng đều sụt giảm. Trung bình nhu cầu trong các ngành giảm từ 40-50%, nặng nề nhất là ngành hàng không, vận chuyển hành khách, du lịch, nhà hàng, khách sạn nhu cầu bị giảm đến 70-80%.
Thứ hai,doanh thu giảm mạnh trên diện rộng. Trong đó, ngành du lịch không phát sinh doanh thu; các nhà hàng, khách sạn bị tê liệt đặc biệt từ tháng 4/2021 trở lại đây, doanh thu ngành hàng không sụt giảm trung bình 61% so với 2019, đợt dịch cao điểm đầu năm 2021 giảm 80% so với cùng kỳ năm 2020.
Thứ ba, dòng tiền bị thiếu hụt nghiêm trọng khiến doanh nghiệp rất khó khăn để trang trải các khoản chi phí nhằm duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thiếu hụt dòng tiền cũng khiến hầu hết doanh nghiệp khó có thể trả lãi các khoản vay ngân hàng đúng hạn, dẫn đến tình trạng nợ xấu, nợ quá hạn, khó có thể tiếp cận các khoản vay mới.
Thứ tư,chi phí đầu vào, chi phí vận chuyển ngày một tăng cao, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguyên, vật liệu đầu vào, làm đội chi phí giá thành sản xuất. Tình trạng thiếu nghiêm trọng container rỗng, giá thuê container tăng 5-10 lần, chi phí vận chuyển logistics tăng từ 2-4 lần, có thời điểm lên đến 5 lần so với trước khi có dịch.
Thứ năm,chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu bị gián đoạn, đình trệ cục bộ. Nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu bị ảnh hưởng phải trì hoãn hoặc hủy đơn hàng, nếu đợt dịch bùng phát kéo dài có thể bị mất thị trường do bạn hàng thay đổi chuỗi cung ứng.
Thứ sáu, lưu thông hàng hóa gặp khó khăn, kể cả lưu thông trong nước, giữa một số tỉnh, thành phố do áp dụng các chính sách phòng, chống dịch bệnh chưa hợp lý. Hậu quả là các doanh nghiệp bị chậm tiến độ giao hàng, nhập hàng, chi phí lưu kho, lưu bãi tăng, cước vận chuyển tăng, tình hình sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ.
Thứ bảy, khó khăn về lao động và chuyên gia: Để cầm cự trước dịch bệnh nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô, cắt giảm lao động. Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn cho việc tìm kiếm nguồn lao động trở lại của các doanh nghiệp khi phục hồi sản xuất sau dịch bệnh, đặc biệt là đối với các ngành nghề yêu cầu lao động có tay nghề, chuyên môn nhất định như cơ khí, điện tử…Các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp FDI gặp nhiều khó khăn với vấn đề nhập cảnh và giấy phép lao động cho chuyên gia nước ngoài.
Thứ tám, khó khăn về tiếp cận các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Các doanh nghiệp cho biết điều kiện của một số chính sách còn khá chặt chẽ, gây khó khăn cho đối tượng hỗ trợ, chưa bao quát hết các tình huốngphát sinh trong thực tế, công tác thực thi có lúc, có nơi còn chưa chủ động, linh hoạt.
Tập trung các nhóm giải pháp ngắn và dài hạn
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, thời gian tới, diễn biến dịch bệnh Covid-19 tiếp tục có chiều hướng phức tạp với nhiều biến chủng mới, tốc độ lây lan nhanh. Thị trường chưa có dấu hiệu phục hồi hoặc đang phục hồi rất chậm, khiến nguy cơ đình trệ sản xuất và suy thoái kinh tế thế giới, tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị và đình trệ sản xuất toàn cầu chưa thể phục hồi trong ngắn hạn. Trong khi đó, làn sóng người lao động di chuyển khỏi tỉnh, thành phố lớn sẽ dẫn tới nguy cơ cao thiếu hụt lao động, đặc biệt là lao động có kỹ năng…
Trước tình hình trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị thực hiện các nhóm giải pháp trong ngắn và dài hạn, trong đó đối với nhóm chính sách, giải pháp cấp thiết cần triển khai ngay, cần tập trung vào 4 nhóm chính. Bao gồm: Thực hiện các biện pháp, phòng chống dịch Covid-19 linh hoạt, hiệu quả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh; Đảm bảo lưu thông hàng hoá thông suốt, hiệu quả, khắc phục chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị bị gián đoạn; Hỗ trợ cắt giảm chi phí, tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp. Với giải pháp này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị nghiên cứu, sửa đổi các chính sách về phí công đoàn, phí bảo trì đường bộ, giá bán điện cho ngành du lịch về dài hạn; nghiên cứu đề xuất tiếp tục có các giải pháp mạnh mẽ hơn đối với để hỗ trợ tái cấu trúc nợ, gia hạn các khoản nợ cũ; giảm lãi suất cho các khoản vay; khẩn trương triển khai các chính sách hỗ trợ về giãn, giảm thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp với giá trị khoảng 20 nghìn tỷ và giảm tiền thuê đất khoảng 700 tỷ sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua; Tháo gỡ khó khăn về lao động, chuyên gia, trong đó, hướng dẫn tổ chức triển khai có hiệu quả gói chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động giá trị khoảng 26 nghìn tỷ. Đồng thời, khẩn trương hoàn thiện quy trình nhập cảnh mới áp dụng với các chuyên gia vào Việt Nam vận hành sản xuất, kinh doanh, đặc biệt đối với đối tượng đã được tiêm chủng, giảm thời gian cách ly xuống mức thấp nhất.
Đối với nhóm chính sách dài hạn, tạo nền tảng hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất 4 nhóm giải pháp chủ yếu, bao gồm: Xây dựng chính sách phát triển doanh nghiệp có tính chiến lược, khai thác lợi thế ngành, lĩnh vực để đón bắt cơ hội nhằm phục hồi nền kinh tế; cần có chính sách để phát triển các doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, đóng vai trò dẫn dắt; phát triển công nghiệp hỗ trợ trong các ngành công nghiệp ưu tiên; giải pháp dài hạn và bền vững về đảm bảo ổn định nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành sản xuất chế tạo; phát triển chuỗi giá trị trong ngành nông nghiệp, chế biến thực phẩm nhằm tạo giá trị gia tăng cao; Nâng cao hiệu quả triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa; rà soát, tháo gỡ vướng mắc pháp lý; đơn giản hóa tối đa các quy trình, thủ tục hành chính hiện tại, xem xét áp dụng các quy trình xuất, nhập khẩu ưu tiên.
Thúc đẩy hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh triển khai phát triển kinh tế số; hỗ trợ phát triển các nền tảng thương mại điện tử; các ứng dụng công nghệ giao dịch thanh toán điện tử, hậu cần giao nhận… nghiên cứu giao hoặc đặt hàng các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam phát triển các giải pháp, nền tảng công nghệ số.
Nâng cao hiệu quả hoạt động và khai thác dư địa của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng đổi mới quản lý của chủ sở hữu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước được hoạt động bình đẳng, chủ động và cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất việc củng cố, phát triển một số tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn hoạt động hiệu quả, có vai trò dẫn dắt trong giai đoạn tới.